Sau những thứ "giời ơi", lại tìm về trà Việt

ANTD.VN - Cuộc sống gấp gáp với đồ ăn nhanh và nước uống đóng chai, liệu có ai còn đau đáu một thuở trà thuần chất mộc mạc, là đời sống, tinh thần và ký ức người Việt từ phố thị đến làng quê và tìm cách gìn giữ?

Nhiều người chọn thưởng trà như một cách để sống chậm lại

Việt Nam là một trong ba vùng nguyên sản của trà trên thế giới, bên cạnh Ấn Độ và Trung Quốc. Các nhà khoa học muốn nghiên cứu về trà không thể không đến Việt Nam tìm hiểu giống cây trà ở Suối Giàng, Hà Giang, Thái Nguyên, Điện Biên… 

Tính đời của trà

Xưa, phong thái uống trà giữa 2 tầng lớp bình dân và quý tộc người Việt có sự khác biệt rõ rệt. Cách thức tầng lớp bình dân chế biến một ấm trà rất thô sơ. Những người vùng quê cho lá trà tươi rửa sạch vào nấu thành nồi. Người Quảng Bình thêm vào đấy một miếng gừng. Hình ảnh chén trà gắn bó với cây đa, quán nước đầu làng, quán đò gió... Mỗi gia đình đều có 2 thứ liên quan đến trà: cái nồi đất để đun trà hoặc ấm tích hãm trà và bộ ấm chuyên để trên bàn.

Bình dân Kinh kỳ mua lá trà tươi ở chợ, trà khô thì cho vào ấm ủ rồi uống. Trong số những người phụ nữ đun trà tươi, người đơn thuần chỉ đun lên, đun xong là xong; còn người cầu kỳ, sau khi đun xong sẽ hãm trà trong chum, niêu hoặc ấm, cho thêm vào đó một gáo nước mưa để hạ nhiệt độ xuống. Nhờ vậy, nước trà hãm được dịu và xanh hơn trong một thời gian dài. Bởi trà của tầng lớp bình dân không được hoàn hảo thơm ngon, nên sinh ra mùa nào thức nấy, họ dệt cho trà một loại hương hoa bản địa thơm, lành. Nơi có nhài dệt nhài, nơi có sen dệt sen, nơi có ngâu dệt ngâu…

Tầng lớp quý tộc gồm vua quan; thương nhân, trí thức có tiền và trí tuệ. Họ sử dụng trà mang tính nghi lễ và chịu sự ảnh hưởng nhất định từ phong cách Trung Hoa. Dòng dõi quý tộc Việt Nam dùng dụng cụ pha trà (hay còn gọi là trà cụ) chủ yếu là đồ ký kiểu. Khi ưng ý một kiểu trà cụ, họ đặt người Trung Hoa làm theo.

Đặc trưng nhất của bộ trà ký kiểu là bộ trà Mai Hạc của Nguyễn Du, có thơ nôm và họa tiết tinh tế. Đến thời Nguyễn, những đồ ký kiểu ít dần, họ mua các sản phẩm Trung Hoa làm sẵn như ấm tử sa, ấm sứ Cảnh Đức, ấm Bạch Định… Cấu trúc bộ trà Việt Nam sau này gần với cấu trúc bộ trà Trung Hoa. Khác ở chỗ, người Trung Hoa chọn những cái ấm lớn, cầu kỳ, nhiều họa tiết; người Việt chọn những chiếc ấm với kích cỡ bé hơn, giản dị, hình thù không quá phức tạp.

Quý tộc uống trà hướng đến tâm thế thư nhàn. Lúc việc triều chính, buôn bán, hay sách vở xong xuôi, họ tìm trà để cảm thấy bình yên trong tâm hồn. Pha trà thường kèm theo một số thú chơi tao nhã khác; là thú chơi không chỉ Việt Nam có mà các nước Đồng Văn (khối sử dụng chữ tượng hình) đều có, ví như chơi lan, chơi chim, chơi trầm…

Tìm cốt cách giữa những “giời ơi”

Thời nào cũng vậy, trà luôn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống, tâm linh người Việt: các nghi lễ ăn hỏi cưới xin phải có trà, đi đình chùa miếu mạo đều dâng trà lên Thánh, Phật. Bên cạnh rượu, cơm canh, hoa ngon quả lạ, con cháu dâng trà lên ban thờ gia tiên như nỗi nhớ về cội nguồn. Trà là một thứ dẫn truyền gửi gắm đức tin đến thế giới mà người ta không biết.

Dù thô sơ hay cầu kỳ, việc sử dụng trà vẫn mất một thời gian nhất định. Cuộc sống bộn bề, quỹ thời gian cho thú chơi bị cắt bớt để dành thời gian cho mưu sinh, tính đời của trà bị mất dần. Tuy vậy, bức tranh về trà ở Hà Nội vẫn vô cùng sống động. Tích nước chè xưa nằm trên đầu ruộng, chõng ngoài sân thong dong uống trà… bây giờ cái chất ấy phần nào còn ở quán trà đá vỉa hè. Cách nhanh nhất để uống trà là tạt qua một quán trà đá, mà khách ruột là dân công sở bận rộn quá chẳng có thời gian tự pha cho mình một ấm.

Trà Thái Nguyên chiếm thị phần lớn nhất, trở thành cái tên thông dụng tại Hà Nội. Song, giới uống trà thường thức hầu như không có sự thông dụng, bởi đặc tính của nhóm này là trải nghiệm. Mỗi người chọn một vài loại họ uống thường xuyên. Ví như trà từ cây cổ thụ hoang dã: Hồng trà, Bạch trà…

Họ luôn có xu hướng tìm và thử cái mới. Người tới quán trà chưa chắc đã phải người uống trà thực thụ. Nay hay xưa đều thế, ai uống càng sành thì càng lùi về, uống ở nhà chứ không đến quán. Đặc tính của đội ngũ uống trà là ai uống thì tự pha cho mình. Chỉ khi mình tự pha cho mình, đó mới là ấm trà ngon nhất.

Khi cuộc sống thêm ổn định, người ta ở độ tuổi 30-40 bắt đầu có cách uống trà cầu kỳ hơn, từ sắm ấm sắm chén, sắm bàn sắm ghế, cho đến việc chọn một không gian trong nhà dành riêng cho thưởng thức trà. Có người uống ngày 1 lần, có người uống ngày 2 lần, có người uống trà liên tục thay nước lọc.

Anh Nguyễn Việt Bắc (Chủ quán Thưởng Trà) cho rằng: “Theo như tính cách người Việt, qua thời kỳ hỗn mang của trà, cái việc uống trà sẽ thuần lại như xưa, họ sẽ giản lược những thứ rườm rà”. Và thế hệ trẻ có thể nối kết với các thế hệ trước qua chén trà hay không? Có thể họ phải đi tìm thật kỹ, qua một quán trà đá giời ơi nào đấy, trà mạn giời ơi nào đấy, trà Hoa, trà Việt, thử đủ phong cách Tây, Nhật, Đài Loan… để nhận ra họ sẽ không thể quyết định việc kết nối với truyền thống dựa trên bề nổi mà phải bằng bản ngã. Bản ngã ấy do lớp trầm tích về văn hóa quy định trong từng người. 

Gần đây, người trẻ đang có xu hướng tìm đến giá trị xưa cũ với hàm lượng cao và đậm đặc; hiểu được những cốt cách đẹp tinh túy, họ sẽ kéo gần về đời sống mà người Việt trọn vẹn nâng niu trà Việt.