Dựng màn kịch bị bắt cóc để tống tiền bố mẹ, phạm tội gì?

ANTĐ - 5h30 sáng ngày 24-3-2016, Nguyễn Cao Cường (SN 1989) chạy bộ từ nhà đến cầu Thăng Long để tập thể dục. Đến 8h tối cùng ngày không thấy Cường về, ông Liêm và bà Vân (bố mẹ Cường) cùng một số người thân đi tìm nhưng không thấy. Đến 22h gia đình ông Liêm nhận được điện thoại thông báo Nguyễn Cao Cường đã bị bắt cóc và yêu cầu nộp ngay số tiền 800 triệu đồng nếu không sẽ sát hại Nguyễn Cao Cường. Ngay sau đó gia đình ông Liêm bà Vân đã trình báo cơ quan công an. 

Dựng màn kịch bị bắt cóc để tống tiền bố mẹ, phạm tội gì? ảnh 1

Vụ việc ngay sau đó được phanh phui, cơ quan công an bắt giữ Nguyễn Cao Cường cùng 2 đối tượng Phan Việt Tiến (SN 1987) và Bùi Anh Vũ (SN 1988). Tại cơ quan công an, Nguyễn Cao Cường khai nhận do bố mẹ không đồng ý cho mở quán Internet nên đã bàn với 2 người bạn là Phan Việt Tiến và Bùi Anh Vũ dựng lên màn kịch bắt cóc để lấy tiền chuộc từ chính bố mẹ mình.


Vấn đề cần tranh luận là trong trường hợp này Nguyễn Cao Cường có phạm tội không? Phan Việt Tiến và Bùi Anh Vũ phạm tội gì?

 Ý kiến bạn đọc:

Tự biến mình thành con tin cũng phạm tội

Trong vụ việc này, Nguyễn Cao Cường đã có hành vi giả bị bắt cóc sau đó gọi điện đòi tiền chuộc. Dù vụ việc là dàn dựng nhưng Nguyễn Cao Cường đã tự đồng ý để biến mình thành con tin với mục đích cùng những người bạn đe dọa nhằm chiếm đoạt tài sản của chính bố mẹ mình. Với sự đe dọa này, Nguyễn Cao Cường đã tạo ra tâm lý lo sợ cho chính bố mẹ mình, buộc họ phải thỏa mãn yêu cầu giao nộp tài sản để đảm bảo tính mạng, sức khỏe cho con của mình.

Hành vi của tội phạm của Nguyễn Cao Cường được thực hiện với lỗi cố ý, bởi mục đích của Nguyễn Cao Cường khi thực hiện hành vi là nhằm buộc bố mẹ mình phải giao nộp tài sản để chiếm đoạt tài sản đó. Phan Việt Tiến và Bùi Anh Vũ cùng giúp sức cho Nguyễn Cao Cường thực hiện hành vi tống tiền nên theo tôi cả Phan Việt Tiến và Bùi Anh Vũ đều là đồng phạm với hành vi phạm tội của Nguyễn Cao Cường. Hành vi đó có thể đoạt tội cưỡng đoạt tài sản. Việc chưa lấy được tài sản là ngoài ý muốn chủ quan.

Trần Hoàng Hải (TP Hạ Long, Quảng Ninh)

Đủ yếu tố cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản

Trong vụ việc này các đối tượng đã phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 135, Bộ luật Hình sự. Theo nội dung của điều luật này thì tội cưỡng đoạt tài sản là đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần nạn nhân nhằm chiếm đoạt tài sản. Ở đây, Nguyễn Cao Cường và đồng phạm đã có thủ đoạn uy hiếp tinh thần của bố mẹ mình bằng cách dựng nên màn kịch bị bắt cóc và yêu cầu nộp ngay số tiền là 800 triệu đồng nếu không sẽ sát hại con tin.

Hành vi đe dọa này buộc bố mẹ của Nguyễn Cao Cường hiểu rằng, nếu không thỏa mãn yêu cầu cung cấp 800 triệu đồng cho các đối tượng này thì các đối tượng sẽ thực hiện hành vi phạm tội là giết con trai của người bị đe dọa. Do vậy, theo tôi có đủ cơ sở để khẳng định các đối tượng đã phạm vào tội cưỡng đoạt tài sản.

Nguyễn Tuấn Anh (TP Việt Trì, Phú Thọ)

Các đối tượng phạm tội lừa đảo

Căn cứ trên hành vi của các đối tượng trong vụ việc này, tôi cho rằng Nguyễn Cao Cường, Phan Việt Tiến và Bùi Anh Vũ đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139, Bộ luật Hình sự. Theo quy định của pháp luật, để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi vi phạm phải đáp ứng được các yếu tố: “dùng thủ đoạn gian dối” và “chiếm đoạt tài sản của người khác”.

Trong vụ việc này, Nguyễn Cao Cường và đồng phạm của mình đã thực hiện thủ đoạn gian dối bằng cách dựng màn kịch mình bị bắt cóc để nhằm đòi tiền chuộc từ chính bố mẹ mình. Việc đòi tiền chuộc này thể hiện sự cố ý chiếm đoạt tài sản của người bị hại được thực hiện với ý đồ thực hiện đến cùng. Như vậy, theo tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Nguyễn Cao Cường và đồng phạm đã dùng thủ đoạn gian dối đưa ra thông tin giả nhưng làm cho người khác tưởng là thật và giao tài sản cho mình.

Nếu hành vi giao tiền này thành công, Cường và đồng phạm sẽ dùng số tiền đó để mở quán Internet. Như vậy là đã có hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình. Do đó, theo tôi có đủ cơ sở để khẳng định các đối tượng này phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật.

Đoàn Duy Hùng (Cam Ranh, Khánh Hòa)

 Bình luận của luật sư:

Hành vi của các đối tượng là nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, xâm phạm đến quan hệ sở hữu được pháp luật bảo vệ, đã có dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản được quy định tại Điều 135, Bộ luật Hình sự, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Theo đó, người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Ngoài những dấu hiệu về chủ thể phải đủ năng lực hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội cưỡng đoạt tài sản, mục đích chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc trong cấu thành của tội này. Tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 135, Bộ luật Hình sự có hành vi khách quan “đe doạ sẽ dùng vũ lực…” là hành vi dọa sẽ gây thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng trong tương lai nếu không thoả mãn yêu cầu chiếm đoạt của người phạm tội.

Khác với tội cướp tài sản “đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” thì tội cưỡng đoạt tài sản là đe dọa “sẽ dùng vũ lực” tức là dùng vũ lực trong tương lai, có khoảng cách về thời gian. Trong trường hợp của vụ việc này các đối tượng đã dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần đối với ông Liêm và bà Vân bằng việc sẽ sát hại Nguyễn Cao Cường nhằm ép ông Liêm, bà Vân phải đưa tiền cho mình.

Điều này thỏa mãn dấu hiệu phạm tội của tội cưỡng đoạt tài sản. Ở đây, trong vụ việc này, người bị đe dọa, uy hiếp tinh thần là ông Liêm và bà Vân còn có điều kiện, thời gian để báo cáo với cơ quan có thẩm quyền xử lý trước khi hành vi chiếm đoạt xảy ra.

Như vậy, trong vụ việc này, hành vi của các đối tượng đã sử dụng là đe dọa sát hại người thân để buộc nạn nhân phải nộp tiền, đây là hành vi uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định trong tội cưỡng đoạt tài sản. Cụ thể,Điều 135. Tội cưỡng đoạt tài sản 

1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Do vụ việc được phát hiện kịp thời, cơ quan công an đã kịp thời can thiệp nên trên thực tế, các đối tượng chưa chiếm đoạt được số tiền 800 triệu đồng, nên thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Điều 18, Bộ luật Hình sự quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân chủ quan ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt”.

Hành vi của các đối tượng có dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. Tuy nhiên, để kết luận chính xác có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không, cần phải căn cứ vào kết luật điều tra, xác minh cuối cùng của các cơ quan chức năng. Đây là vụ việc có tính chất đồng phạm nên trong trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự, cả 3 đối tượng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cùng một tội với các vai trò tham gia khác nhau, ví dụ như người chủ mưu, người thực hành…

Luật sư Chu Mạnh Cường (Trưởng Văn phòng Luật sư Danh Chính, Đoàn Luật sư TP Hà Nội)