Từ chân núi Đề Liêm, phường Bình San (thị xã Hà Tiên, Kiên Giang), khách phải vượt qua một nghĩa địa rêu phong, leo lên sườn dốc dựng đứng khoảng 70m mới đến được ngôi tháp cổ gần 300 năm tuổi.
Từ xa chỉ thấy đó là một cây bồ đề đại thụ có nhiều thân rễ chằng chịt đứng sừng sững nơi lưng chừng núi. Khi đến tận nơi, khách mới nhận ra ngôi tháp nằm lọt thỏm giữa những thân rễ chằng chịt của cây bồ đề. Từ trên chót đỉnh của tháp, những dây rễ rất to tủa xuống ôm vào lòng gần như toàn bộ diện tích bên ngoài tháp. Hàng trăm năm nay, tại ngôi tháp có nhiều chuyện huyền bí khiến người ta tin rằng sư trụ trì đã trở thành thần linh trấn giữ vùng đất này.
Ông Lương Phếnh Cang, sinh năm 1941, cán bộ hưu trí ngành bưu điện, cư ngụ tại khu phố 1, phường Bình San là nhân chứng vụ thoát chết hy hữu của 11 người dân trước làn sóng diệt chủng của Pôn Pốt năm 1978. Ông kể, từ đầu tháng 3-1978, Pôn Pốt từ bên kia biên giới bắt đầu nã pháo vô tội vạ vào lãnh thổ Việt Nam. Nhiều người bị thương và chết bởi trúng đạn pháo của chúng.
Tối ngày 12-3-1978, Pôn Pốt bắn pháo dữ dội hơn những ngày trước. Sáng 13-3-1978, chúng lại ngưng bắn pháo. Chiều nhập nhoạng, một số người dân ở biên giới Xà Xía và chợ Hà Tiên hay tin quân Pôn Pốt bắt đầu tràn vào lãnh thổ, đã lục đục dọn đồ đạc chạy lánh nạn. Những người chạy không kịp đều bị Pôn Pốt tàn sát một cách dã man.
Rễ cây bồ đề phủ kín ngôi tháp. Ảnh: An ninh thế giới. |
Thời điểm đó, khu vực chân núi Đề Liêm còn thưa người, tách biệt với cụm dân cư. Vì vậy, 3 gia đình của ông Trần Kim Sáu, bà Thìn và ông Niêng sống dưới chân núi Đề Liêm hoàn toàn không hay biết gì. Khi họ nghe tiếng súng AK và tiếng kêu cứu thất thanh của những người dân ở xóm ngoài bị giết thì đã muộn. Mọi lối thoát đều có bóng dáng Pôn Pốt. Không còn cách nào khác, 3 gia đình gồm 11 người, trong đó có 5 trẻ em chui đại vào lòng tháp ẩn nấp.
Đến 8h sáng, một toán quân Pôn Pốt độ chừng 16-17 tuổi, mặc quần đùi, áo thun luộm thuộm như dân làm đồng. Chúng ôm súng AK từ quốc lộ tiến lên chân núi Đề Liêm, vào từng ngôi nhà lùng sục. Không gặp ai, chúng kéo nhau lên phía tháp cổ. Đúng lúc này, một đứa trẻ (nay đã hơn 40 tuổi, vẫn còn sống tại địa phương) sợ quá bật khóc thành tiếng. Mặc dù bà mẹ đã kịp bịt mồm đứa trẻ nhưng trong rừng vắng, chỉ cần một tiếng nấc cũng đủ để thu hút sự chú ý của quân sát nhân.
Nghe tiếng đứa trẻ khóc, chúng tập trung xung quanh tháp. Lúc này những người trong tháp thất kinh hồn vía khi nhận ra do thói quen một vài người đã bỏ dép bên ngoài cửa tháp. Một tên bước đến trước cửa tháp nghiêng đầu ngó vào. Mọi người nép sát người vào nhau run bần bật. Ai cũng nhìn thấy rất rõ ánh mắt khát máu của tên sát nhân. Mọi người nhắm mắt chờ chết.
Cửa tháp rộng vừa vặn thân hình một người lớn chui vào. Bình thường, đứng ở vị trí tên sát nhân, ai cũng có thể nhìn thấy rất rõ bên trong lòng tháp nhưng không hiểu do bị mờ mắt hay do mắt bị lóa nắng, tên lính Pôn Pốt cứ chĩa mũi súng và nhìn vào lòng tháp mà không bắn. Bỗng mọi người nghe tiếng một con chó sủa vang. Tên lính Pôn Pốt giật mình quay mũi súng bắn con chó một loạt đạn. Loạt đạn không trúng con chó nhưng làm mẻ một góc bia của tháp.
Tiếng súng chát chúa làm con chó hoảng hốt, co cẳng chạy vào rừng. Mọi người lại thấp thỏm sợ tên lính Pôn Pốt tiếp tục quay súng vào trong tháp. Nhưng không, hắn đã bỏ đi. Đồng bọn của hắn cũng đi theo. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Ai cũng nghĩ, mình được thần linh bảo vệ.
Quân sát nhân không đi hẳn mà kéo nhau xuống chân núi, cách tháp cổ khoảng 100 mét bắt gà làm thịt, ăn uống rồi đóng chốt luôn ở đó. Mọi người đành nín thở nằm trong lòng tháp chịu đói, khát. Đến trưa hôm sau, bộ đội phản công tiêu diệt gọn nhóm Pôn Pốt dưới chân núi Đề Liêm. Bộ đội phát hiện 11 con người kiệt sức ẩn nấp trong lòng tháp. Họ nhanh chóng được chuyển ra tuyến sau cấp cứu. Hiện nay, bà Thìn và ông Niêng vẫn sống tại Hà Tiên.
Cách đây vài năm, một số người đến chặt rễ cây bồ đề. Lưỡi cưa mới ăn sâu được mấy tấc thì mắc kẹt, cưa tiếp cũng không được mà lấy ra cũng không xong. Một người trong nhóm dùng búa chém rễ cây để giải thoát lưỡi cưa. Không ngờ nhát búa đầu tiên cắm phập vào rễ cũng bị hút chặt. Ba người cùng vận lực kéo đến vã mồ hôi vẫn không lay chuyển được lưỡi búa. Nghe tin, một vị sư ở ngôi chùa gần đó đến đốt nhang, đọc kinh, khấn xin. Kết thúc lễ, vị sư kéo nhẹ một cái, lưỡi cưa lẫn lưỡi búa đều rơi ra.
Từ khi bên kia biên giới Xà Xía mọc lên cụm sòng bài, thỉnh thoảng người ta lại thấy một con bạc cháy túi đến đây tìm cái chết. Nhưng tất cả đều được cứu sống hoặc bỏ ý định tự tử. Trong đó có một phụ nữ trạc 30 tuổi, một hôm chị ta đến ngồi cạnh tháp khóc suốt một buổi rồi bỏ đi. Khi chị ta đi khuất, những người tò mò phát hiện dưới chân tháp có một tờ giấy bị vò nát. Mở tờ giấy ra, người ta mới biết đó là lá thư tuyệt mệnh của một người thua bài tên Nga.
Người viết thư có ghi rõ tên tuổi, địa chỉ để những người phát hiện ra xác giúp báo cho người thân. Cách đó không xa, người ta còn phát hiện một chai thuốc diệt cỏ còn nguyên. Thì ra, Nga cư ngụ ở Rạch Giá, đi buôn cá khô ở Hà Tiên. Nghe lời bạn bè xúi, Nga qua sòng bài thử vận may. Sau 2 ngày, Nga trắng tay. Thất chí, Nga quyết tự tử. Nhưng khi ngồi dưới bóng bồ đề, Nga bình tâm trở lại nên bỏ ý định chết.
Tấm bia tháp bị mẻ một góc. Ảnh: An ninh thế giới. |
Mới đây, một thanh niên tên Hà ở Tô Châu, thua bài ở casino Campuchia đã leo lên đỉnh tháp dùng áo làm thòng lọng toan treo cổ. Nhưng chiếc thòng lọng bị đứt, anh ta rơi bịch xuống đất nằm ngay đơ, mất nhịp tim, phổi ngừng thở. Dù không hy vọng sống sót nhưng người dân địa phương vẫn đưa vào bệnh viện cấp cứu sau khi báo cáo với chính quyền. Một tuần lễ sau, anh ta xuất viện. Hiện giờ chiếc áo "thòng lọng" của anh ta vẫn dính phất phơ trên cành cây đề.
Người ta tin rằng, vị thần linh của ngôi tháp không muốn chứng kiến bất kỳ ai chết ở nơi đây. Nhiều học giả khẳng định ngôi tháp là công trình kiến trúc cổ nhất trong số những di tích lịch sử tại Hà Tiên. Hiện tại, ngay trước cửa tháp vẫn còn một bia đá chạm khắc dòng chữ Hán: "Lâm Tế tam thập lục thế. Ấn Đàm Lão hòa thượng chi tháp", có nghĩa là "Tháp mộ của Lão hòa thượng Ấn Đàm, dòng Lâm Tế đời thứ 36". Cách đó vài mét, một tấm biển xi măng có khắc chữ Việt: "Lâm Tế-1662-tháp 7 tầng-Ấn Đàm-Lão hòa thượng".
Núi Đề Liêm còn có tên gọi khác là núi Phù Dung. Trong “Gia Định thành thông chí” xác nhận, núi Đề Liêm còn tên gọi khác là Bát Giác Sơn. Có lẽ do ngôi tháp có hình bát giác nên người xưa đặt tên núi theo. Bên cạnh tháp có một ngôi chùa dòng Lâm Tế do Hòa thượng Ấn Đàm trụ trì, gọi là chùa Phù Dung. Tuy nhiên, tên chính của chùa là Tiêu Sơn Tự.
Các sử liệu có ghi, từ khoảng năm 1820 (là năm sách “Gia Định thành thông chí” ra đời) trở về sau, trấn Hà Tiên đã trải qua 3 cuộc tao loạn lớn do quân Xiêm xâm lược, gồm: năm 1833 (Minh Mạng thứ 14); tháng 2-1842 (Thiệu Trị năm thứ 2); năm 1845 (Thiệu Trị năm thứ 5). Ngôi chùa Phù Dung bị quân Xiêm phá sập vào khoảng năm 1833-1834, tức lần tao loạn đầu tiên.
Năm 1969, người ta phát hiện ra di tích này. Khi đào sâu xuống nền đất khoảng 3 tấc, người ta bắt gặp rất nhiều vật dụng còn nguyên vẹn, như: cái lư hương bằng đồng, nhiều lọ sành sứ, một cái chum còn nguyên số gạo đã ẩm nát... Sự cố chùa bị sập với các loại gia dụng còn nguyên, cho thấy chiến tranh đã ập đến bất ngờ.
Cách ngôi tháp 40 mét về ở hướng tây nam bây giờ vẫn còn hiện hữu một giếng xưa gọi là giếng chùa Tiêu. Trong sách “Monogaphie de la povince de Ha Tiên” của Hội Nghiên cứu Đông Dương ấn hành năm 1901 khẳng định ngôi chùa này đúng là Tiêu Sơn Tự - 1 trong 10 cảnh đẹp của Hà Tiên lúc bấy giờ và đã được Mạc Thiên Tứ ca ngợi trong bài thất ngôn bát cú "Tiêu Tự hiểu chung".
Khi những cư dân đầu tiên tìm đến khai khẩn vùng đất này đã thấy ngôi mộ tháp 7 tầng sừng sững với ngọn cây bồ đề trên đỉnh tháp. Mưa làm xói mòn, đất đá trên đỉnh núi trôi xuống lấp dần 2 tầng dưới nên người ta chỉ thấy có 7 tầng trên. Người ta gọi luôn đó là tháp 7 tầng. Xung quanh ngôi mộ tháp, hiện nay vẫn còn những trụ đá móng nền - dấu tích của một ngôi chùa bị tàn phá.
Thời gian dần trôi, cây bồ đề ngày càng lớn. Rễ cây dần phủ kín ngôi tháp cổ theo từng bậc trông rất đẹp mắt. Bên trong lòng tháp trống rỗng. Người ta cho rằng, dưới tầng một vẫn còn ngọc vị của vị sư trụ trì. Tất cả những cứ liệu lịch sử đều khẳng định giá trị ngôi tháp cổ ấy.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bao ngày nắng đêm mưa ngôi tháp cổ đã tròm trèm 300 tuổi. Tháp không chỉ là một phần của lịch sử khai khẩn phương Nam mà còn là một di tích đánh dấu sự tồn sinh mãnh liệt của ông cha. Nhưng hiện các cơ quan chức năng địa phương phó mặc ngôi tháp cho thiên nhiên mà không có biện pháp bảo quản.