Nằm cách trung tâm thành phố Hà Nội 14km về hướng Tây, làng Cự Đà nổi tiếng với nghề làm miến truyền thống, cung cấp cho Hà Nội và nhiều tỉnh thành lân cận.
Theo nhiều bậc cao niên ở Cự Đà, nghề làm miến từ dong riềng ở Cự Đà đã có từ gần một trăm năm trở lại đây. Sợi miến Cự Đà có đặc điểm rất dễ nhận là thường có màu vàng óng hoặc trắng mịn; khi nấu lên có vị thơm ngon, giòn và dai rất vừa miệng. Sợi miến nhỏ, đều, nhìn là biết được “ra lò” từ Cự Đà chứ không phải từ vùng nào khác.
Người Cự Đà chọn loại củ dong riềng ngon, đem xay thành bột. Bột dong sau đó được ngâm với nước và lọc để chọn lấy phần tinh bột, rồi được đánh lên. Một phần bột được ngâm với nước sôi gọi là bột chín. Bột chín mang hòa với bột đã lọc, với tỷ lệ 1/10 tạo nên hỗn hợp.
Tiếp đó, bột được tráng thành bánh, hấp chín và đem phơi nắng. Sau khi gần khô, bánh được đưa qua máy cán thành từng sợi miến nhỏ, dài.
Theo một gia đình làm miến lâu năm trong làng tiết lộ, để có sợi miến ngon, ở mỗi công đoạn người làm miến phải hết sức cẩn thận và tỉ mỉ.
Ngay như ở khâu phơi bánh trước khi cắt thành từng sợi miến cũng đòi hỏi người phơi phải thật khéo để trải cho tấm bánh miến được căng rộng, đều trên tấm phên, bởi như vậy thì tấm bánh miến mới khô đều và dễ cắt thành từng sợi miến nhỏ.
Công đoạn phơi bánh miến phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Nếu thuận lợi, chỉ cần một nắng là đủ khô.
Khi đã khô đến một mức độ nhất định, bánh miến sẽ được máy cắt nhỏ thành từng sợi dài, nhỏ rồi lại được đem... phơi tiếp ngoài nắng.
Thời điểm cận Tết Nguyên đán, nhu cầu tăng cao, mỗi ngày, Cự Đà có khoảng 15 đến 18 tấn miến thành phẩm được xuất xưởng rồi tỏa đi khắp các chợ lớn, chợ nhỏ của Hà Nội và nhiều tỉnh, thành trên khắp cả nước.
Từ làng trên xóm dưới, từ người già đến người trẻ, tất cả đều tất bật cho những mẻ miến phụ vụ Tết cổ truyền của dân tộc.
Dưới tốc độ đô thị hóa, ngôi làng cổ kính bị biến dạng ít nhiều. Thế nhưng, nhiều hộ gia đình trong làng vẫn gìn giữ nghề làm miến, với những bí quyết được lưu truyền từ nhiều đời.
Hàng trăm ngàn tấn miến được xuất đi mỗi năm đem lại thu nhập ổn định cho người dân làng. Cũng bởi vậy mà sau một thời gian “bỏ bê”, nhiều hộ gia đình đã quay lại với nghề truyền thống này.