Những đứa trẻ “người rừng” là những đứa trẻ lớn lên trong môi trường tự nhiên, cách biệt hoàn toàn với nền văn minh nhân loại và không có bất kỳ sự tiếp xúc nào với con người.
Thật lạ kỳ khi một đứa trẻ có thể tồn tại trong tự nhiên mà không cần đến sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ và người lớn. Động vật đôi khi lại trở thành những bậc cha mẹ bất đắc dĩ của con người.
Dưới đây là những trường hợp có thật về những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi các loài động vật.
1. Kamala và Amala
Hai cô bé này là trường hợp nổi tiếng nhất về những đứa trẻ hoang dã thời hiện đại. Hai bé được tìm thấy năm 1920 vào một ngày tháng 10, ở phía Tây của ngôi làng hẻo lánh Calcutta. Dân làng sửng sốt khi thấy rằng tại một khu vực dành cho chó sói, họ tìm thấy hai bé gái đang được sói mẹ cho ăn cùng với đàn sói con.
Dân làng ngay lập tức bắn và giết chết sói mẹ để đưa bé gái về, sau đó họ đặt tên cho hai bé là Kamala và Amala. Hai bé ước tính có độ tuổi từ 2 đến 8, và đã được đưa đến nhà thờ truyền giáo Anglican.
Thật lạ kỳ khi một đứa trẻ có thể tồn tại trong tự nhiên mà không cần đến sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ và người lớn. Động vật đôi khi lại trở thành những bậc cha mẹ bất đắc dĩ của con người.
Dưới đây là những trường hợp có thật về những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi các loài động vật.
1. Kamala và Amala
Hai cô bé này là trường hợp nổi tiếng nhất về những đứa trẻ hoang dã thời hiện đại. Hai bé được tìm thấy năm 1920 vào một ngày tháng 10, ở phía Tây của ngôi làng hẻo lánh Calcutta. Dân làng sửng sốt khi thấy rằng tại một khu vực dành cho chó sói, họ tìm thấy hai bé gái đang được sói mẹ cho ăn cùng với đàn sói con.
Dân làng ngay lập tức bắn và giết chết sói mẹ để đưa bé gái về, sau đó họ đặt tên cho hai bé là Kamala và Amala. Hai bé ước tính có độ tuổi từ 2 đến 8, và đã được đưa đến nhà thờ truyền giáo Anglican.
Không ai biết điều gì đã xảy ra với các bé gái và bằng cách nào mà họ lại được nuôi dưỡng bởi những con sói, nhưng có một điều chắc chắn: hàm các bé gái đã biến dạng, có răng nanh dài, và chi tiết kỳ lạ nhất là đôi mắt của các bé tỏa sáng trong bóng tối với ngọn lửa màu xanh kỳ lạ của loài mèo và loài chó.
Các bé gái không sống sót được. Amala đã mất vào năm sau đó, nhưng Kamala vẫn sống sót cho đến năm 1929. Cô bé đã bỏ được thói quen ăn các thứ bẩn thỉu, học được cách đứng thẳng và có thể sử dụng khoảng 50 từ.
2. Cô bé gấu ở Fraumark (1767)
Trong thực tế không có nhiều trường hợp con người được nuôi dưỡng bởi gấu, nhưng có một bé gái đã được xác nhận là được nuôi bởi chính những con gấu trong rừng.
Các bé gái không sống sót được. Amala đã mất vào năm sau đó, nhưng Kamala vẫn sống sót cho đến năm 1929. Cô bé đã bỏ được thói quen ăn các thứ bẩn thỉu, học được cách đứng thẳng và có thể sử dụng khoảng 50 từ.
2. Cô bé gấu ở Fraumark (1767)
Trong thực tế không có nhiều trường hợp con người được nuôi dưỡng bởi gấu, nhưng có một bé gái đã được xác nhận là được nuôi bởi chính những con gấu trong rừng.
Một nhóm thợ săn đã bị sốc khi thấy một bé gái xông vào tấn công họ sau khi họ bắn chết một con gấu mẹ. Cô bé đã được đưa đến một cơ sở từ thiện nhưng không bao giờ chấp nhận thức ăn nấu chín. Cô bé chỉ ăn thịt sống và vỏ cây.3. John Ssebunya - cậu bé người khỉ
Năm 1991, một người dân địa phương Uganda đã mạo hiểm đi sâu vào rừng để kiếm củi và tìm thấy một cậu bé đang sống chung với một đàn khỉ hoang dã. Ngay lập tức người này đã quay trở về làng để tìm sự giúp đỡ và sau đó cậu bé đã được đưa về ngôi làng.
Dân làng sớm nhận thấy đầu gối cậu bé gần như trắng hoàn toàn do đi bộ như một con khỉ, có móng tay cong dài và thậm chí không chịu ở trong nhà.
Dân làng sớm nhận thấy đầu gối cậu bé gần như trắng hoàn toàn do đi bộ như một con khỉ, có móng tay cong dài và thậm chí không chịu ở trong nhà.
Cậu bé người khỉ khi trưởng thành. |
Sau khi được tắm rửa sạch sẽ, cậu bé được xác định là John Sesebunya, một đứa trẻ đã mất tích vào năm 1988, khi cha cậu bé giết mẹ. Khi đó cậu bé mới chỉ 2 tuổi.
Cậu bé thừa nhận vẫn nhớ giây phút ngơ ngác khi ở trong rừng và những con khỉ đã đi đến cạnh cậu bé, cung cấp rễ cây và các loại hạt, khoai lang và kasava cho cậu bé.
Cậu bé John cho biết trong cuộc sống tự nhiên, những con khỉ đã dạy cậu cách tìm thức ăn, leo cây và sống theo bầy đàn. Cậu bé lớn lên với một cuộc sống bình thường và đã chuyển đến Anh khi 21 tuổi.
4. Cậu bé Syrian Gazelle
Jean-Claude Auger là một nhà nhân chủng học người Baxcơ, và một ngày khi ông đi du lịch qua sa mạc Sahara, ông đột nhiên để ý thấy một cậu bé mảnh mai đang phi nước đại với vận tốc đáng kinh ngạc trong một cuộc biểu diễn của những con linh dương trắng. Cậu bé chạy bằng cả chân và tay, nhưng đôi khi cũng chạy trong tư thế đứng thẳng.
Cậu bé thừa nhận vẫn nhớ giây phút ngơ ngác khi ở trong rừng và những con khỉ đã đi đến cạnh cậu bé, cung cấp rễ cây và các loại hạt, khoai lang và kasava cho cậu bé.
Cậu bé John cho biết trong cuộc sống tự nhiên, những con khỉ đã dạy cậu cách tìm thức ăn, leo cây và sống theo bầy đàn. Cậu bé lớn lên với một cuộc sống bình thường và đã chuyển đến Anh khi 21 tuổi.
4. Cậu bé Syrian Gazelle
Jean-Claude Auger là một nhà nhân chủng học người Baxcơ, và một ngày khi ông đi du lịch qua sa mạc Sahara, ông đột nhiên để ý thấy một cậu bé mảnh mai đang phi nước đại với vận tốc đáng kinh ngạc trong một cuộc biểu diễn của những con linh dương trắng. Cậu bé chạy bằng cả chân và tay, nhưng đôi khi cũng chạy trong tư thế đứng thẳng.
Cậu bé theo bản năng co giật cơ bắp, da đầu, mũi và tai, giống hệt với các con vật trong đàn gia súc khi phản ứng với tiếng ồn. Cậu bé ăn rễ cây, có những cạnh răng cho thấy một chế độ ăn của động vật ăn cỏ. Người dân đã cố gắng bắt cậu bé vào năm 1966, nhưng không thành công, vì vậy họ không bao giờ cố gắng một lần nữa.