Đi tìm đồ hiếm
Ông Hoàng trước là con của một gia đình tư sản, được thừa hưởng nhiều của cải. Trong vòng xoay của thương trường, nhiều nhà cửa, đồ quý đã buộc phải ra đi theo những chuyến làm ăn… Tuần trước chúng tôi sang, ông lôi ra những đồ bát, ly, đĩa, bảo: Đồ thờ từ thời cụ cố nhà tôi, không giữ được đành phải đem cầm vậy… Nâng niu mấy chiếc bát, ông chủ cửa hàng đồ cổ tên Nguyễn Ngọc Cường, ở đường Lê Công Kiều, quận 1 ngắm một chốc, nói: “Đồ nhà Nguyễn, rẻ lắm, đổ đồng, 1 triệu đồng”. Tiếc của, ông Hoàng lụi cụi sang mấy hàng bên, giá không thay đổi, có chủ còn xin “quét” lại hình để xem hàng thật, hàng giả.
Quen một người tên Minh “đồ cổ” ở Gò Vấp, chúng tôi hẹn gặp. Ông Minh xem hồi lâu rồi bảo, đúng đồ nhà Nguyễn thế kỷ XVIII nhưng là đồ các quan đặt hàng bên Trung Quốc, hàng tinh xảo và thuộc dạng hiếm. Hàng này, 1 triệu đồng/chiếc bát là giá giao dịch… nội bộ, còn nếu dân kinh doanh, họ có thể hét giá tới cả nghìn USD. Chợt nhớ ra điều gì, ông Minh hỏi: Các anh có cho họ chụp hình không? Ông Hoàng ớ người. “Với những mẫu đẹp, hiếm, dân buôn đồ cổ thường lấy mẫu, rồi đặt hàng tận Đức Hóa (Phúc Kiến), Cảnh Đức (Giang Tây, Trung Quốc) làm y như thật rồi chuyển về TP.HCM bán, nhiều tay mơ bị gạt cả trăm triệu đồng là chuyện thường. Đến tôi chơi đồ cổ mấy chục năm, còn bị lừa”.
Ông Minh kể: 6 năm trước trên mạng internet, tôi thấy có người ở Quảng Ninh giới thiệu một chiếc chóe đời Minh giá gần 600 triệu đồng. Thấy quá đẹp, các họa tiết đều thuộc dạng hiếm, tôi bay ra và xuống tận Đông Triều. Hóa ra cũng là một tay chơi đồ cổ, anh này vừa mua từ trong bản ở Bắc Giang đem ra bán kiếm lời. Xem mãi, nghĩ là đồ thật, tôi mua và chuyển về TP.HCM. Ngỡ được món đồ quý, hôm mời nhà nghiên cứu cổ vật Trần Đình Sơn đến để khoe, ông xem hồi lâu rồi phán: Cốt thì đúng là sứ thời Minh nhưng được phủ men pha đồng chất với loại men thế kỷ XV, nét vẽ tinh xảo hơn… Có thể chiếc chóe này được dân vớt tàu đắm lùng được, đã vỡ và dùng kỹ thuật gắn kết lại, vẽ mới. Không tin, ông Minh đem chiếc chóe đi “xạ”, đúng nó là đồ vớt bị vỡ, những cao thủ buôn đồ cổ đã thuê thợ giỏi gắn lại, phủ men và vẽ mới đây vài năm, giá những loại đồ “mông” này, chỉ từ 400-3.000 USD tùy theo mức độ “vá”.
Thật, giả lẫn lộn
Theo TS. Phạm Ngọc Dũng, chuyên gia về văn hóa khảo cổ Đại học KHXH&NV TP.HCM, đồ cổ ngày càng hiếm, nếu còn nguyên vẹn, giá từ vài trăm triệu đồng đến mấy triệu USD và đều được cất kỹ để bán cho các nhà sưu tập nước ngoài, chứ làm gì còn nhiều món bày bán nhan nhản trên phố Lê Công Kiều. Cũng vì thế, việc giả mạo đồ cổ, nhất là đồ gốm sứ bao năm qua đem lại cho dân buôn cổ vật những thương vụ cực lãi. Và theo thời gian, mức độ tinh vi trong “mông” đồ cổ, chế đồ giả cổ cũng tinh vi hơn.
Ngoài chuyện đồ cổ được đào, vớt lên đã bị vỡ, để lâu trong môi trường nước, đất ẩm ngả màu, các nét vẽ bị bay, một số đồ sẽ được tô lại nhưng dễ nhận biết vì phần trang trí vẽ thêm rất khó đồng bộ với thân thể hiện vật. Để làm cũ hàng, dân giả cổ phun một lớp hóa chất làm mờ đều các họa tiết, bôi bùn đất cho nhem nhuốc sau đó thả xuống hồ ao, có tay còn đem ra biển, chỗ nào nhiều hà, sò để thả, 2-3 năm sau vớt lên, thế là thành đồ cổ. Với những món đồ vỡ nát, sau công đoạn “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, thợ thủ công sẽ phủ một lớp men theo đúng công thức pha men cùng thời kỳ món đồ cổ, sau đó cũng phun hóa chất, cho vào lò nung và cho xuống biển…
Biết dân chơi cổ vật thường xem đáy đồ sứ để xác định niên đại, dân buôn từ những năm 1998-1999 đã cắt phần đáy của những cổ vật bị vỡ rồi đến tận vùng chế tác các đồ gốm sứ Bát Tràng, Chu Đậu, Phù Lãng hay sang tận Giang Tây, Hồ Nam, Trung Quốc để đặt hàng. Những lằn tiếp giáp mới-cũ được che mờ bằng men và họa tiết, nên phải dùng C14 xác định đồng vị carbon mới biết đích xác niên đại cổ vật.
Tinh vi hơn, đồ giả cổ còn được nghiên cứu để tạo bọt, tạo gỉ sét, kim gút cho món đồ “đượm màu thời gian”. Có món như gốm Chăm, giới giả cổ còn săn lùng cả khối gốm khai quật về thuê thợ tạo tác, bôi bùn đất lấy từ Ninh Thuận, nên có dùng máy xác định niên đại, cũng… bó tay. Tuy nhiên như ông Minh “đồ cổ” chia sẻ: Với đồ gốm, sứ cổ không có những sản phẩm cùng loại, cùng một kích thước. Vì vậy, nếu phát hiện những sản phẩm gốm màu có cùng kích thước, hoa văn trang trí giống hệt nhau thì chắc chắn, đó là hàng giả. Do bị chôn vùi lâu dưới lòng đất, tùy nơi ruộng cạn hoặc ruộng nước, ngoài biển Cù lao Chàm hay Vân Đồn mà độ kiềm, muối lắng đọng trên bề mặt cũng khác nhau, có loại, khi khai quật, trên sản phẩm có một lớp kiềm dày màu vàng hoặc trắng, rất cứng; có loại lại không có ngấn nước nào. Hàng giả cũng có ngấn nước song lại được làm bằng keo trong, khá mỏng, không có độ cứng, khi sờ vào có cảm giác dính.
Với dòng gốm cổ, do thường được nung bằng củi nên sản phẩm có độ tơi xốp, khá nhẹ, có những lỗ thoát khí nhỏ. Hàng giả thường được nung bằng than hoặc lò điện, mật độ chất dày đặc, khá cứng, không có lỗ thoát khí. TS. Phạm Ngọc Dũng cho rằng, với đồ gốm thì dễ nhận biết hơn song cũng phải hết sức cẩn trọng. Nguyên liệu chế tạo gốm cổ là đất chứa nhiều khoáng, mang một cảm giác cổ xưa, thuần phác, màu sắc dịu nhẹ, trong khi hàng giả cổ thường dùng nguyên liệu màu thông thường, màu sắc sặc sỡ, tương đối đều màu, rất khó tróc khi nung nóng. Gốm màu được chôn vùi dưới đất mấy nghìn năm màu sắc sẽ khác nhau, dễ bong tróc, khi ngửi, có mùi đất nhẹ, đôi khi còn có dấu tích của bộ rễ thực vật. Một số loại gốm giả cũng được các tay giả cổ trát bùn đất lấy từ vùng khai quật, nhiều mẫu gốm có thể ngửi thấy mùi đất và có dấu tích của bộ rễ. Song đồ giả cổ có mùi khói của đất hầm, rất gắt, vết tích của bộ rễ thực vật nếu làm giả bằng ăn mòn hóa học cũng được xác định từ các vết lõm, chìm trong bề mặt sản phẩm. Bên cạnh đó, gốm cổ ít thấm nước, nếu bôi một chút axit lên bề mặt, hàng giả sẽ không bốc khói, không sinh ra bọt...
(Còn nữa)